Đái dầm
http://suckhoedoisongvietnam.blogspot.com/2014/03/ai-dam.html
Đái dầm là sự bài tiết nước tiểu không theo ý muốn, thường xảy ra về ban đêm (một số trường hợp xảy ra vào ban ngày), không do một bệnh lý cơ thể gây ra. Bệnh được chẩn đoán khi tần số đái dầm là 2 lần mỗi truần trong ít nhất 3 tháng liền, bệnh nhân đau khổ vì chứng bệnh này, bệnh gây giảm sút chức năng hoạt động xã hội, học tập…Đái dầm thường xảy ra ở trẻ em, theo thống kê của Mỹ công bố năm 1997, với trẻ 5 tuổi, tỷ lệ đái dầm là 7% ở trẻ nam và 3% ở trẻ nữ. Đối với trẻ em 10 tuổi, tỷ lệ này là 3% ở trẻ nam và 2% ở trẻ nữ.
Đái dầm thường được chia làm 2 loại:
- Đái dầm nguyên phát xuất hiện ở trẻ sơ sinh, là hiện tượng kéo dài tình trạng đái không tự chủ sinh lý của trẻ.
- Đái dầm thứ phátxuất hiện sau một thời gian đã kiểm soát được chức năng bàng quang, thường bắt đầu từ lúc 5-7 tuổi.
Nguyên nhân
Đa số trường hợp không tìm được nguyên nhân đặc hiệu. Sau đây là một số giải thuyết về nguyên nhân chứng đái dầm:
- Hệ thần kinh chậm trường thành, có nhân tố di truyền.
- Gia đình ít huấn luyện trẻ đi tiểu; xung đột giữa các thành viên trong gia đình.
- Trạng thái lo âu của trẻ em sau sang chấn tâm lý ở nhà hay ở trường.
Tiêu chuẩn chẩn đoán
- Đái ra quần hay ra giường lặp lại, thường không theo ý muốn (một số ít trường hợp có ý thức).
- Tần số đái dầm là 2 lần mỗi truần trong ít nhất 3 tháng liền, bệnh nhân đau khổi vì chứng bệnh này, bệnh gây giảm sút chức năng hoạt động xã hội, học tập…
- Trẻ em bị bệnh phải từ 5 tuổi trở lên.
- Rối loạn không hoàn toàn do tác dụng sinh lý trực tiếp của một chất (thí dụ chất lợi tiểu) hay do một bệnh cơ thể (tiểu đường, động kinh, nhiễm trùng đường tiết niệu…).
- Sau 5 tuổi, tỷ lệ thuyên giảm tự phát của đái dầm là 5% -10% mỗi năm.
- Đa số các trường hợp trở lại kiểm soát được tiểu tiện ở lứa tuổi thanh thiếu niên.
- Khoảng 1% các trường hợp đái dầm vẫn tiếp diễn ở tuổi trưởng thành.
- Giải quyết xung đột tâm lý trong gia đình nếu có, nhất là xung đột mẹ-con.
- Giải thích để gia đình và trẻ đái dầm khỏi quá lo lắng về chứng bệnh.
- Giúp gia đình quản lý và giáo dục thích hợp quy trình đi tiểu ban đêm của trẻ (đi tiểu trước khi ngủ, không uống nước nhiều ban đêm, giúp bé đi tiểu khi thức giấc nửa đêm…).
- Tránh các trạng thái mệt mỏi (học quá nhiều) hay kích thích (phim, tivi…) trước khi đi ngủ.
- Liệu pháp hóa dược: Thuốc chống trầm cảm có hiệu lực trong nhiều trường hợp: chống trầm cảm 3 vòng (Mélipramine), hoặc chống trầm cảm thế hệ mới ít tác dụng phụ (các chất ức chế thu hồi Serotonin), có thể cho giải lo ấu (Valium) đối với những trẻ lo lắng nhiều về chứng bệnh của mình.
- Liệu pháp tâm lý: Liệu pháp tâm lý nâng đỡ, liệu pháp tập tính (các phương pháp khử điều kiện).
BS Nguyễn Minh Tuấn
(Trích từ cuốn Các rối loạn tâm thần, Chẩn đoán và điều trị)